Nguyễn Thượng Hiền Là Ai

Nguyễn Thượng Hiền Là Ai

Sau nhiều lần "gỡ bí" cho triều đình nhà Trần trước sứ thần phương Bắc, Nguyễn Hiền được vua triệu về kinh đô, cho học tiếp Tam giáo khoa chủ, tức đạo Lão, đạo phật, đạo Khổng và bổ nhiệm chức quan. Theo cuốn Những Trạng nguyên đặc biệt trong lịch sử Việt Nam, ông làm quan đến chức Thượng thư bộ Công (người đứng đầu bộ Công, tương đương chức bộ trưởng ngày nay).

Tiến trình chơi của Nguyễn Khắc Tiệp[]

Thành phố Westminster, Quận Cam, Ngày 27 tháng 12 năm 2015

Trước kia, tôi dùng Nguyễn Đắc Xuân – thằng bạn học thuở thiếu thời – là thằng cộng sản tép riu nổ sảng, nó khoe nó đi theo Cách Mạng (!) là đi làm lịch sử, để nói cho nó hiểu rằng những thứ cộng sản từ chóp bu trở xuống như Hồ Chí Minh, Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp … chẳng có thằng nào học và hiểu biết lịch sử cả. Nếu chúng nó có học lịch sử thì không đời nào chúng nó đi không làm tay sai cho giặc Tàu! Tôi dùng chữ “thằng” để gọi những người cao tuổi hơn mình không phải vì tôi vô lễ. Giản dị là tôi khinh những đứa phản quốc, bán nước.

Tôi nghĩ chàng nhạc sĩ trẻ tuổi Việt Khang đặt tựa bài hát “Anh Là Ai?” cũng vậy. Công An Việt Cộng (CAVC) chỉ là loại côn đồ tép riu, không phải là đối tượng xứng đáng cho Việt Khang đặt câu hỏi. Cho nên, vừa rồi tôi viết bài có tựa đề “VIỆT KHANG ĐẶT CÂU HỎI THỜI ĐẠI: ANH LÀ AI?” là để chứng minh cho độc giả thấy rằng đó là câu hỏi đặt ra cho tất cả những người Việt Nam từ phía Cộng Sản sang phía Quốc Gia, thuộc thế hệ Cha Ông đã làm gì để cho thế hệ con cháu như chàng phải nhận lấy hậu quả đớn đau này. Đó là câu hỏi nêu lên vấn đề Lương Tri và Trách Nhiệm có tầm vóc thời đại mà chúng ta sống trong thời đại này phải có bổn phận trả lời. Nếu chúng ta tảng lờ quay mặt đi thì chúng ta không xứng đáng làm CON NGƯỜI VIỆT NAM của thời đại mà ta đang sống.

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa trong buổi phỏng vấn với nhóm phóng viên của Frontline khi họ thực hiện phim “Terror in Little Saigon.”(Hình: http://www.frontline.org)

Anh là nhân vật kỳ bí và tài tình, xuất chiêu tuyệt đẹp. Rất nhiều lần tôi muốn nêu lên câu hỏi “Anh là ai?”, nhưng chưa có dịp. May nhờ có anh nhà báo Mỹ – A. C. Thompson – làm thiên phóng sự “Terror In Little Saigon” thì tôi thấy đây là lúc để đặt vấn đề với anh. Tôi đánh giá anh cao lắm; còn những thứ như Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Kim Huờn chỉ là loại tép riu. Tôi sẽ giải thích sau.

Ngày 30 Tháng 4 năm 1975, Cộng sản Hà Nội hoàn thành cuộc xâm lăng; chứ không phải giải phóng nhân dân Miền Nam ra khỏi sự đô hộ của Hoa Kỳ như họ rêu rao. Nếu họ giải phóng thì đồng bào không dính dáng tới chế độ VNCH không hớt hãi rời bỏ quê hương. Cộng Sản “cướp” chính quyền bằng khuynh đảo. Cho nên, ưu tiên của họ là tận diệt tất cả mầm mống có thể khuynh đảo họ:

1/ Lừa tất cả quân, cán, chính đi học tập ngắn hạn, nhưng đày ải, hành hạ kéo dài hàng chục năm nhằm làm kiệt quệ ý chí phấn đấu của đối phương.

2/ Tổ chức kháng chiến giả để lừa những phần tử Chống Cộng không chịu đi trình diện. Phao tin đồn “Thống tướng” Nguyễn Cao Kỳ, “Đại tướng” Ngô Quang Trưởng đã về chiến khu để lãnh đạo nhân dân vùng lên. Mục đích để biết ai tỏ ra “hồ hỡi, phấn khởi” là tóm nốt; giống như bắt chước “bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng” (trăm nhà đua tiếng, trăm hoa đua nở) của Mao Trạch Đông để dựng lên phong trào “Trăm Hoa Đua Nở” nhằm hốt trọn văn nghệ sĩ nào có máu phản động.

Đó là thủ đoạn ở quốc nội. Ở quốc ngoại, Cộng Sản cũng tìm cách triệt tiêu những ai mưu đồ phục quốc. Trước hết, họ gửi điệp viên sang Pháp, giả vờ là thành phần Nam Bộ trong cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam bất mãn cộng sản Miền Bắc, sẵn sàng làm nội ứng để tổ chức cuộc đảo chánh nhằm mục đích giành Miền Nam cho người Miền Nam. Cho nên những người như Lê Quốc Túy, Trần văn Bá, Hồ Thái Bạch, Mai văn Hạnh, Lê Quốc Quân… toàn là người Miền Nam họp nhau năm 1981 thành lập Mặt Trận chỉ Giải phóng Miền Nam mà thôi. Về sau Mặt Trận Lê Quốc Túy mới chính thức đặt tên là Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Việt Nam.

Mặt Trận Lê Quốc Túy không băng rừng, họ dùng xuồng máy đổ bộ vào Cà Mâu theo sự chỉ dẫn của điệp viên VC đã xâm nhập vào tổ chức. Rút cục, nhân sự, vũ khí đều bị bắt “trọn gói” (chữ VC thường dùng). May mà Lê Quốc Túy bị lên cơn suyễn không thể tham dự, nên thoát chết. Kết quả là 5 người bị xử tử hình, 3 người tù chung thân và 13 người bị tù từ 8 đến 20 năm. Mai văn Hạnh được TT. Giscard D’ Estaing can thiệp nên được trả về Pháp. Tôi đã từng gặp riêng Lê Quốc Túy ở Hoa Kỳ.

Trong khi tôi đang đánh nhau với cộng sản ngoài chiến trường ở VN, thì anh đang học ở trường Cao Đẳng Thương Mại ở Paris (Hautes Études Commerciales Paris). Trong khi tôi hoạt động trong Ủy Ban Tranh Đấu cho Nhân Quyền Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn với Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, thì anh đang làm việc cho bọn Cộng Sản tại Sài Gòn sau 1975 cùng với cựu Phó Thủ tướng Nguyễn văn Hảo đặc trách kinh tế trong chính phủ của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu

Trước năm 1975, tôi không quen biết Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, nhưng sau này cùng nhau sinh hoạt trong Ủy Ban Tranh Đấu Nhân Quyền Cho VN, có lẽ do cơ duyên sao đó, tôi được ông Minh ưu ái, nên thường bàn bạc với nhau về chuyện Nước Non. Tôi rất mến mộ Tướng Minh ở tinh thần dấn thân, tinh thần hòa đồng với anh em; nhưng đồng thời tôi cũng khám phá ra nơi ông là một con người có nhiều thủ đoạn, khát khao làm lãnh tụ một cách cuồng nhiệt. Khát vọng làm lãnh tụ khiến cho ông Minh bất chấp nguyên tắc đấu tranh cách mạng bạo lực, quyết dùng mọi phương tiện để đạt mục đích một cách nhanh chóng. Mẫu người đó muốn người cộng sự với mình chỉ biết tuân thủ mệnh lệnh; chứ không chấp nhận bất cứ ai góp ý, bàn bạc, cho nên rất dễ bị kẻ nào có ý đồ xấu dùng sự xu nịnh, tâng bốc mê hoặc để dẫn dắt đến thất bại. Thiết nghĩ Đỗ Thông Minh chia tay ông Hoàng Cơ Minh cũng nhìn thấy ở ông Minh những đặc điểm giống như tôi thấy, nên nhanh chân giã từ Mặt Trận?

Do đâu tôi khám phá ra khát vọng của Tướng Minh? Thấy ông làm thợ sơn quá vất vả, một hôm tôi nói: “Anh Minh, tại sao anh không đi xin việc như Phó Đề đốc Đinh Mạnh Hùng làm cho hãng Xerox, có phải đỡ mệt hơn không?” Tướng Minh cười cười trả lời: “Cậu không biết Hitler xuất thân là anh thợ sơn mà về sau làm rúng động thế giới à?”. Thật ra, Hitler chưa bao giờ là thợ sơn. Giấc mơ của Hitler là trở thành họa sĩ (Peintre trong tiếng Pháp). Hitler thi vào trường Mỹ thuật , bị đánh rớt vì tranh vẽ của Hitler giống tranh vẽ của kiến trúc sư; chứ không giống như tranh nghệ thuật. Qua câu trả lời của Tướng Minh, dù là đùa, thì nó cũng biểu hiện cá tính của ông sau nhiều ngày đêm tranh luận với tôi. Đối với nhân loại, Hitler là con Quỷ. Tướng Minh nuôi giấc mơ Hitler thì dễ trở thành… quỷ !

Tôi nghe nhiều nguồn tin, trong đó có nguồn tin từ luật sư Nguyễn văn Chức, nhà báo Cao Thế Dung, anh là cháu của Mười Cúc Nguyễn văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản. Họ bảo anh là cán bộ cộng sản được gửi ra nước ngoài để triệt hạ Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Riêng tôi thì không, bởi vì trong cuộc nội chiến VN, gia đình nào cũng có người ở phía bên này hoặc ở phía bên kia. Tôi chỉ theo dõi, quan sát hành động của đối tượng để đánh giá mà thôi. Vả lại, tôi rất không ưa sự chụp mũ vô căn cứ.

Nhân có phim “Terror In Little Saigon” ra đời, anh mới viết bài “Ba Cuộc Phỏng Vấn Và Hai Năm Phỏng Vấn” đăng trên tuần báo Sống ngày 15 tháng 11 năm 2015. Qua bài viết đó, tôi nhận thấy có một số sự kiện mà tôi cần đặt câu hỏi: “Anh Là Ai?”. Nhớ có lần xem cái Video Clip “Giờ Giải Ảo” với chủ đề “Trọng Thủy – Mỵ Nương thời nay” do anh cùng nhà báo Đinh Quang Anh Thái diễn xuất, tôi cũng muốn thử giải ảo để độc giả nhận xét anh là ai nhé. Nếu tôi giải không đúng, anh cứ việc lên tiếng phản bác, còn nếu anh im lặng thì độc giả sẽ hiểu anh là ai.

Anh kể anh tham gia Mặt Trận vì câu nói của ông Hoàng Cơ Minh: “Tôi không tin là trong đời mình sẽ thấy Việt Nam được giải phóng khỏi chế độ Cộng sản. Nhưng tôi thà chết trong rừng như một thảo khấu còn hơn làm một người tỵ nạn ở hải ngoại.” Và anh kể chuyện ông Hoàng Cơ Minh nhận công tác đi tìm người Mỹ mất tích (MIA) trong chiến tranh VN được ông Richard Armitage giao phó để tương kế tựu kế dàn dựng cuộc kháng chiến mà không thèm hỏi ý kiến Hoa Kỳ là thêm một lý do để anh tham gia, thì tôi càng không tin. Là một người thông minh, anh không thể nào tham gia một tổ chức mà “Lãnh Tụ” thà chết trong rừng như một tên thảo khấu (chứ không thèm tuân theo nguyên tắc và quy luật đấu tranh cách mạng và cái ông “Lãnh Tụ” đó dám trở mặt với Hoa Kỳ trong khi còn lệ thuộc giấy tờ để vào đất Thái). Không! Anh không phải là loại người bồng bột để tham gia một cách phiêu lưu như vậy. Dù anh có máu “lãng mạn cách mạng” chăng nữa, anh cũng không liều lĩnh đến thế. Anh tham gia có chủ đích làm quân sư; chứ không giống như Trung tá Lê Hồng và hàng chục “kháng chiến quân” tình nguyện ôm súng xuyên rừng vào VN mà nội địa chưa có cơ sở hạ tầng.

Trong bàn bạc tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, tôi đã cảnh báo ông Hoàng Cơ Minh rằng nếu ông cứ khăng khăng theo chủ trương của ông thì chắc chắn trước sau gì ông cũng trở thành thảo khấu. Nay anh lặp lại hai chữ “thảo khấu” thốt ra từ cửa miệng ông Minh càng xác minh cho mọi người thấy rằng ông Minh là lãnh tụ một tổ chức đấu tranh không hề có sách lược, chiến lược gì cả, chỉ làm liều để thà làm tên “thảo khấu” hơn là phải làm người tị nạn ngày ngày đi sơn nhà để kiếm cơm độ nhật!

Trong “Hồi Ký Một Đời Người”, cụ Phạm Ngọc Lũy đã đề cập đến Nguyễn Xuân Nghĩa như sau:

– Người có nhiều sáng kiến nhất về Đại Hội (Chính Nghĩa) là Phạm Dương Hiển, cũng là người giới thiệu Nguyễn Xuân Nghĩa từ San Francisco sang giúp Đại Hội. (tr. 110)

– Sau Đại Hội, Hoàng Cơ Minh đã lấy lại sức, không còn bị sốt rét như hôm tới Virginia, cho biết sẽ để Nghĩa giữ chức vụ Tuyên Vận. Quả thực, sau khi nghe lời này, tôi toát mồ hôi. Trực giác đã giúp tôi nhận ra có cái gì bất thường….( tr.120 )

– Khi Hoàng Cơ Minh cho biết đưa Nghĩa vào chức vụ Ủy Viên Tuyên Huấn, tôi đã nói:“ Nghĩa đã ở lại với CS năm năm, nên cần một thời gian để hiểu Nghĩa, để tìm hiểu công việc Nghĩa đã làm khi ở lại Sài Gòn. Nghĩa có rất nhiều khả năng, làm việc thâu đêm suốt sáng không biết mệt… nhưng càng tài giỏi bao nhiêu, một khi gây tai hại thì tai hại sẽ to lớn không lường được. Giữ một nhiệm vụ có ảnh hưởng đến sinh mệnh MT thì cần phải đắn đo, suy nghĩ…”. Tuy ở cùng nhà 6604 Lee Highway gần hai tháng, không một lần nào tôi nói với Nghĩa về chi tiết công việc tôi đã làm ở các nơi, và cũng không hề hỏi Nghĩa những ngày Nghĩa ở lại Sài Gòn. (tr. 139,140)

– Mở đầu phiên họp, Liễu buộc tội Nghĩa từ khi vào MT luôn luôn gây bất hòa giữa người này với người kia, như công kích Đinh Mạnh Hùng, cư xử không tốt với Nguyễn Bích Mạc. Báo Kháng Chiến dưới sự trông coi của Nghĩa đã được sử dụng để gây chia rẽ, mượn lời Lê Hồng (Đặng Quốc Hiền) để mạt sát tập thể quân đội. Giới sinh viên, văn nghệ sĩ, Phật giáo … đều có lời than phiền. Thoạt đầu, Liễu cho rằng Nghĩa còn quá trẻ nên nông nổi, cho đến khi Ủy ban Phản Gián An Ninh khuyến cáo nên thay thế Nghĩa ở chức vụ Tuyên vận. Vì Nghĩa, sau 75 tiếp tục ở lại Việt Nam, đã cộng tác với Nguyễn văn Hảo, không hề phải đi học tập cải tạo, đó là chưa kể đến yếu tố Nghĩa là cháu của Tổng Bí Thư VC Nguyễn văn Linh đang gây nghi vấn trong dư luận. Vì sinh mệnh của MT, đây là vấn đề an ninh nên chỉ hội ý với Ủy Ban An Ninh mà không triệu tập phiên họp Tổng Vụ (tr. 224)

– Trần Xuân Ninh, sau khi nghe những lời nói đi đáp lại đã dằn từng tiếng:“Tôi có cảm tưởng Nghĩa là nguyên nhân của mọi sự việc, Nghĩa đứng đầu lá thư nặc danh, Nghĩa gây ảnh hưởng với chiến hữu Chủ tịch, với chiến hữu Định. Vậy có phải đúng Nghĩa là nguyên nhân của mọi sự rắc rối, và như thế có đúng không ?”. (tr.226)

– Ngày 23, Nguyễn tường Bá đã nói câu chót buổi họp: “Nếu chiến hữu Định tiếp tục nghe và tin theo chiến hữu Nghĩa thì vấn đề còn nhiều khó khăn lắm! ”. (tr. 228)

– Liễu không dằn được, nói tiếp: “Tôi chưa hề làm gì để rung thang cả. Chiến hữu Chủ tịch đề cập đến vấn đề thay thế Tổng Vụ Trưởng, còn hải ngoại chưa hề bảo quốc nội phải từ chức dù công việc không tiến triển. Không phải Nguyễn Nam viết lá thư gửi đi các nơi. Những người khác đã viết để Nguyễn Nam ký tên.. ” ( tr.236 )

– Hoàng Cơ Định (Phan Vụ Quang) vẫn giọng gay gắt: “Không nên buộc tội người vắng mặt. Nếu bảo rằng không ai có quyền, chỉ là phân chia trách nhiệm thì Tổng vụ Trưởng có quyền gì giải nhiệm Vụ trưởng Nguyễn Đồng Sơn (Nghĩa). Tôi đề nghị mời chiến hữu Đồng Sơn tham dự phiên họp. Phải để Đồng Sơn có tiếng nói..”(tr.237).

Khi công thành danh toại, cảnh “lục súc tranh công” giành nhau miếng đỉnh chung mà sinh ra phân hóa là chuyện thường thấy. Nhưng khi đang mưu đồ việc lớn, muốn thành công, ắt mọi người phải đoàn kết như keo sơn mới đúng. Là một quân sư cho Mặt Trận đang mưu đồ việc lớn, anh âm mưu chia rẽ người này với ngưới kia là một điều phi lý. Anh chuyên viết thư nặc danh là một hành động không xứng đáng với một con người bình thường; chứ đừng nói là một quân sư. Anh hành động mờ ám (viết thư nặc danh), vì anh có chủ đích.

Tôi đã hỏi ông Phạm văn Liễu tại sao anh là người tiến cử Nguyễn Xuân Nghĩa với Hoàng Cơ Minh, mà cuối cùng anh lại bị Nghĩa xúi dục Hoàng Cơ Minh cách chức? Ông Liễu đáp: “Thằng Nghĩa nó dùng miệng lưỡi rắn đâm bị thóc chọc bị gạo và khổ nhục kế để lấy lòng Hoàng Cơ Minh. Hễ Hoàng Cơ Minh nằm trên giường là nó nằm ngay dưới sàng nhà cạnh ông Minh”. Câu này ông Liễu cũng nói với ông Nguyễn văn Chức nữa. Tôi tin rằng Đại tá Trần Minh Công cũng nghe ông Liễu nói như thế.

Năm 1988 cựu Đại sứ Bùi Diễm thuyết phục được các đảng viên cao cấp Đại Việt họp nhau để thống nhất Đảng về một mối. Sau phần nghi thức khai mạc, cụ Cung Đình Quỳ – 92 tuổi – phát biểu đầu tiên. Cụ đã hài tội các anh Đặng văn Sung, Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Bùi Diễm, Đặng văn Đệ, Nguyễn văn Canh v… v… đã không đoàn kết nhau để chiến thắng cộng sản. Cụ muốn kể từ nay các đồng chí phải dốc hết tâm huyết đoàn kết một lòng để cùng nhau phất ngọn cờ Đại Việt giải phóng Việt Nam. Sau bài nói hùng hồn của đồng chí cao niên nhất, các anh lớn đều bắt tay xin lỗi nhau, rưng rưng thú tội và thề sẽ quyết tâm. Mỗi người luân phiên phát biểu chừng ba phút. Tới lượt tôi, tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ lời nói hùng hồn của đồng chí Cung Đình Quỳ, nhưng có một điểm tôi không đồng ý. Mọi người hướng mắt nhìn về tôi để chờ xem tôi nói điều gì. Tôi chậm rãi thưa: “Tôi không đồng ý với câu “từ nay chúng ta phất ngọn cờ Đại Việt để giải phóng Việt Nam. Nói như thế, có nghĩa là Đại Việt vẫn mang tinh thần cục bộ. Tại sao chúng ta không cùng các tổ chức khác để phất ngọn cờ Dân Tộc? Một mình Đại Việt dù đoàn kết keo sơn đến mấy cũng không thể triệt hạ nổi cộng sản”. Các nhân vật tham gia buổi họp năm 1988 còn sống là các anh Bùi Diễm, Đào Nhật Tiến, Nguyễn văn Canh, Lê Tấn Trạng và Nguyễn văn Ánh chắc còn nhớ điều tôi nói trong buổi họp.

Năm 1989, Đảng Đại Việt Thống Nhất ra đời, thấy cụ Nguyễn Tôn Hoàn và cụ Hà Thúc Ký làm Đồng Chủ tịch thì tôi đề nghị Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng – cựu Tư lệnh Nhảy Dù – cùng ra khỏi Đảng vì hai vị lãnh đạo vẫn đặt nặng chức chưởng. Tại sao không nhường nhau để một người là Chủ Tịch, một người là Phó Chủ Tịch, mà phải là Đồng Chủ Tịch? Kể từ đó, tôi không tham gia đảng phái nào khác.

Ngày 29 tháng 12 năm 1984 Mặt Trận vỡ làm đôi do phân hóa nội bộ, mà vấn đề quan trọng nhất là tài chánh không minh bạch. Ông Phạm văn Liễu và ông Phạm Ngọc Lũy đòi Hoàng Cơ Định phải báo cáo sự chi tiêu một cách rõ ràng. Sự đòi hỏi đó là hợp lý, nhưng ông Minh bênh vực em, còn cách chức ông Liễu mà anh không ngăn cản, tức là anh đồng lõa với việc ông Minh làm kháng chiến để ông em – Hoàng Cơ Định – nắm túi tiền. Ở trường hợp đó, tôi sẽ ra khỏi tổ chức vì ông Minh lem nhem, không xứng đáng làm lãnh tụ. Anh vẫn bám trụ, tức là anh có ý đồ hùa theo phần tử xấu trong tổ chức để sau này dễ bề khuynh đảo.

Khi cao trào kháng chiến lên tột đỉnh, ông Phạm văn Liễu nổi đình nổi đám hơn cả ông Hoàng Cơ Minh, nhờ vào tài hùng biện kích động quần chúng. Tôi được người anh thúc bá là Đặng văn Đệ giới thiệu với ông Liễu. Trước sự hào hứng của ông Liễu, tôi nói với ông ta rằng “anh là người hữu dũng vô mưu, thùng rỗng kêu to thôi”. Ông anh tôi và ông Liễu, cả hai người rất giận. Tôi giải thích: “Anh đang đi bán món hàng mà nhà sản xuất chưa chế tạo, trước sau gì cũng bể. Rút cục, anh nào giữ tiền, anh đó có quyền lực và anh với hai bàn tay trắng sẽ chẳng còn ai theo.”

Tôi không phải tiên tri. Nhưng trong thời đại kim tiền, phe nào nắm tài chánh, phe đó có thế lực. Trong cuộc họp vào ngày 29 tháng 12 năm 1984 diễn ra tại San José của phe ông Hoàng Cơ Minh ít đoàn viên tham dự hơn phe hai ông Đại tá Phạm văn Liễu và Trần Minh Công tổ chức tai Orange County, nhưng rút cục Mặt Trận đẻ ra Đảng Việt Tân nhờ có tiền trả lương cán bộ. Phe ông Liễu dần dần lùi vào bóng tối. Không ai dám phủ nhận lòng nhiệt thành của các ông Phạm văn Liễu, Trần Minh Công, Phạm Ngọc Lũy, nhưng đồng thời các ông cũng đáng bị khiển trách vì đã kém luận lý để bị Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh dẫn dắt vào cuộc phiêu lưu đầy tai tiếng. Tôi không theo ông Hoàng Cơ Minh vì tôi ý thức quy luật đấu tranh cách mạng: Không bao giờ phát động quần chúng trước khi có nội lực.

Là quân sư, anh không can ngăn ông Hoàng Cơ Minh để râu, mặc bà ba đen, quấn khăn rằn giống hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh – một tội đồ dân tộc – tôi nghĩ, anh có thâm ý. Trên tờ Kháng Chiến, anh phổ biến tên ông Hoàng Cơ Minh bằng ba chữ tắt “HCM”, tôi nghĩ, anh không vì sơ ý.

Viết bài “JE SUIS CHARLIE” hồi đầu tháng Giêng năm 2015, tôi nói rằng tôi coi Mặt Trận là nghi phạm trong cái chết của nhà báo Đạm Phong và vợ chồng Lê Triết, vì không có tang chứng. Nhưng về cái chết của ông Hoàng Cơ Minh, tôi khẳng định các ông Nguyễn Xuân Nghĩa, Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Kim Huờn là thủ phạm. Phó Đề đốc tuyên bố Mặt Trận có 10 ngàn quân và 36 tổ chức ở nội địa tham gia kháng chiến là tuyên bố láo, mà chắc chắn ban lãnh đạo Mặt Trận biết rõ hơn ai hết. Vậy ông Minh lên đường về nước để tìm cái chết vì lãnh tụ bị bẽ mặt do sự lừa dối và vì sợ phe ông Liễu tố giác về cái chết của ký giả Đạm Phong liên lụy đến những việc làm khuất tất của mình. Ông Minh thà chết như tên thảo khấu trong rừng Thái Lan hơn là bị chung thân bóc lịch trong tù. Ông Minh không phải là anh hùng như người ta tưởng, như Việt Tân tuyên dương. Ông Mình hèn vì không dám đối diện với công lý và bất nhân vì dẫn những người yêu nước chết theo mình một cách vô lối.

Lịch sử không thể tha thứ cái tội của ông Minh và mưu đồ của anh đẩy ông Minh vào chỗ chết.

Nếu tôi là quân sư, tôi sẽ khuyên ông Minh đứng ra giải thích với đồng bào như sau: “Trước đây, Mặt Trận dùng đất Thái Lan làm bàn đạp để xâm nhập Việt Nam nhằm đưa cán bộ về xây dựng hạ tầng cơ sở nội địa, chờ cơ hội đứng lên lật đổ bạo quyền Việt Cộng. Nhưng tình thế đã đổi khác, Thái Lan hiệp thương với Việt Cộng, nên dự án xâm nhập bất thành. Chúng tôi chuyển đấu tranh cách mạng bạo lực sang đấu tranh chính trị. Số tiền do đồng bào đóng góp bấy lâu nay Mặt Trận sẽ dùng để xây dựng cộng đồng, đào tạo thế hệ trẻ cho chiến lược dài lâu, nếu thế hệ chúng tôi chưa đạt được”. Tôi tin anh Nghĩa thừa sức nghĩ ra điều như tôi trình bày ở trên, nhưng anh không ngăn cản ông Minh, vì anh muốn ông Minh … phải bị hy sinh. Hoàng Cơ Định không cản anh mình, vì biết chắc số tiền cả chục triệu đô-la do Mặt Trận quyên góp được sẽ về tay mình. Mỗi người có một mưu tính riêng. Còn hai anh chàng Trần Xuân Ninh, Nguyễn Kim Huờn chỉ là hạng theo đuôi, bảo sao nghe vậy.

Trong bài “Ba Cuộc Phỏng Vấn Và Hai Năm Phỏng Vấn”, anh Nghĩa tiết lộ anh biết ông Minh chết ba năm sau ngày gặp gỡ lần đầu. Ông Minh chết, anh Nghĩa cùng một lúc đảm nhiệm chức vụ Tuyên vận và Kế hoạch, tức anh Nghĩa là đầu não (Mastermind) quyết định mọi chuyện, đúng không? Cái việc Chủ tịch Hoàng Cơ Minh viết thư từ chiến khu quốc nội gửi thư ra thăm đồng bào hải ngoại vào dịp Tết Nguyên Đán, chúc các cháu nhi đồng trong dịp Tết Trung Thu và những phóng sự các trận đánh của “Kháng chiến quân” hạ sát Công An Việt Cộng đăng trên tờ Kháng Chiến đều do anh ngụy tạo; chứ ai vào đấy? Ai dám qua mặt ông Tổng Tuyên Vận? Chắc chắn anh biết những tin vịt đó sẽ một ngày bị bại lộ, uy tín anh sẽ cháy ra tro, tại sao anh vẫn làm? Bởi vì anh có chủ đích?

Trong đời người, “CHỮ TÍN” là quan trọng nhất. Làm tiền bất chính sẽ bị quần chúng khinh khi, phỉ nhổ. Tại sao anh dám hy sinh danh dự của mình? Phải chăng anh âm mưu chuyện gì ghê gớm hơn?

Anh là kinh tế gia thượng thặng, vì được các đài VOA, RFA, RFI thường xuyên phỏng vấn. Mỗi lần anh đoán thị trường lên xuống đều trúng phóc, thì với số tiền kếch sù của Mặt Trận, anh chỉ ngồi nhà “chơi” chứng khoán, cũng đủ đem về cho Mặt Trận hàng chục triệu đô-la một cách danh chính ngôn thuận. Anh đâu cần dùng CỜ VÀNG dán trên những cái lon xin tiền đồng bào yểm trợ kháng chiến đặt lây lất nơi chợ búa, nhà hàng ăn? Hình thức đem CỜ VÀNG đi ăn xin chẳng khác gì những Mẹ Mìn đi bắt trẻ con, rồi đánh đập cho què tay què chân để đưa tới đám đông lạy ông đi qua lạy bà đi lại. Anh chà đạp biểu tượng thiêng liêng của người Chống Cộng mà không ai dám hé môi. Anh cao cường thiệt!

Theo “kháng chiến quân” Phạm văn Thành nhận định, sau cái chết của ông Minh, cán bộ mất niềm tin, Mặt Trận có nguy cơ tan rã, nhưng nhờ Nguyễn Xuân Nghĩa bay sang Âu Châu gây dựng lại, nên Đảng Việt Tân mới tồn tại tới ngày hôm nay. Tôi đánh giá nhận định của anh Phạm văn Thành là đúng, bởi vì ngoài anh Nghĩa ra, những thứ như Hoàng Cơ Định, Trần Xuân Ninh, Nguyễn Kim Huờn chẳng có khả năng gì để xây dựng đảng Việt Tân.

Tôi chưa hề đọc thấy Hoàng Cơ Định viết một bài tham luận chính trị nào cho ra hồn. Anh ta chỉ biết thấy ai viết bài bênh vực Việt Tân thì vội nhảy ra khen và tâm đắc. Hai chữ “tâm đắc” được ông Định xài hoài, nghe mà phát chán. Hoàng Cơ Định đáng khinh vì khi luật sư công tố ở Tòa đưa tấm hình Hoàng Cơ Minh nằm chết, hỏi có biết người này là ai không, thì Hoàng Cơ Định lắc đầu nói không! Nói “không” là vì lúc đó Mặt Trận vẫn cương quyết xác nhận Hoàng Cơ Minh còn sống! Thật tội nghiệp ông Hoàng Cơ Minh, đến thằng em mình cũng không dám nhìn nhận mình!

Trần Xuân Ninh mang danh bác sĩ, nhưng tối dạ, cứ ở lỳ trong đảng Việt Tân cho đến khi bị khai trừ (tức là bị đuổi) thì mới thốt lên Việt Tân đi chệch hướng. Hướng nào? Sao không nói?

Còn Nguyễn Kim Huờn thì chỉ biết “Xì, Già, Đầm, Bồi …” trong cỗ bài cào theo như bạn cùng đơn vị Đào Vũ Anh Hùng từng tiết lộ. Chiều mồng 5 tháng 7 năm 2013, tại nhà một anh em Không Quân, Nguyễn Kim Huờn đến chào tôi. Tôi bảo: “Anh còn nợ Phạm Đăng Cường và tôi một lời xin lỗi”. Huờn vội vã nói: “Tôi ra khỏi Việt Tân rồi mà, anh Âu!”. Tôi bỉu môi. Huờn nắm lấy tay tôi, quả quyết nói: “Anh hãy nhìn vào mắt tôi đây này! Tôi nói thật mà, anh Âu!”. Tôi gỡ tay Huờn ra và nói: “Tôi mắc mớ gì phải nhìn vào mắt anh để biết sự thật? Anh hãy tổ chức cuộc họp báo để thông báo với quần chúng kia kìa! Giống như anh đã họp báo khai trừ Trần Xuân Ninh dạo trước ấy! Cái ngày anh khai trừ Trần Xuân Ninh, tôi đã biết sẽ chẳng bao lâu anh cũng bị Việt Tân cho nghỉ việc, vì vai trò bù nhìn của anh đã cáo chung, vì anh chẳng có khả năng để họ dùng”. Từ ngày gặp gỡ đó cho đến nay, tôi chẳng biết Huờn trốn ở đâu mà không ra mặt trong khi mọi người xôn xao về vụ “Terror in Little Saigon”. Một sĩ quan VNCH đi làm kháng chiến, mà lẩn tránh như thế, tôi cho là rất tồi.

Thành phần lãnh đạo vừa không có khả năng, vừa tồi cho nên anh Nghĩa thao túng thế nào cũng được, là phải! Hai nhân vật Phạm văn Liễu, Phạm Ngọc Lũy được coi là “lão thành” bị anh đá văng ra khỏi tổ chức mà chỉ biết cười đau khóc hận bằng hai tập hồi ký dày cộm thì ai nấy đều nhìn nhận anh nguy hiểm thật! Giống như năm nào Tiến sĩ Nguyễn văn Hảo đã nói về anh ở Paris.

Tôi làm mất lòng nhiều người lắm, vì quen thói nói thẳng thừng. Sau khi tôi đọc bản thảo bài phóng sự do ký giả Hoàng Xuyên theo chân Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh về “khu chiến”, tôi khuyên ông Nguyễn Thanh Hoàng – Chủ nhiệm tờ Văn Nghệ Tiền Phong – không nên đăng, bởi vì tôi biết đó không phải là sự thật. Ông Hoàng giận tôi lắm, đáp lớn gần như mắng tôi: “Các anh Đại Việt có cái tật chê bai người khác, hèn gì không đoàn kết được với ai!” Tôi không phản ứng lại, chỉ nhún vai đáp: “Wait and See”! Đau thay, sự đoàn kết của ông Chủ nhiệm VNTP với ông Hoàng Cơ Minh mang lại kết quả vác chiếu ra tòa vì bị anh kiện cái tội phỉ báng. Ông Hoàng về sau thân tôi lắm! Mỗi lần xuống Houston, ông đều mời tôi đi ăn để phân bua: “Giá như ngày đó tôi nghe lời anh!”.

Tôi làm mất lòng Đại tá Cảnh sát Phạm văn Liễu, Thượng Nghị sĩ Nguyễn văn Chức, Đại tá KQ. Vũ Thượng Văn, Trung tá KQ. Đàm Thượng Vũ, Trung tá KQ. Phạm Hữu Thế … vì tôi nói sự thật về Mặt Trận cho họ nghe. Khi Mặt Trận mới tan vỡ, luật sư Nguyễn văn Chức viết bài bào chữa, ví sự tan vỡ của Mặt Trận giống như “cơn sốt vỡ da” của đứa trẻ trước khi bước sang giai đoạn trưởng thành. Tôi trêu ông: “Luật sư hay thiệt! Các ông luật sư đều có biệt tài biện bác để biến một kẻ có tội thành vô tội, hoặc ngược lại!”. Luật sư Chức giận tôi lắm, có lẽ ông nghĩ ông là Thượng Nghị sĩ thì trình độ nhận thức chính trị phải hơn anh chàng phi công lái máy bay. Ông cho rằng ông ủng hộ Mặt Trận là đúng! Về sau, chuyện kháng chiến càng ngày càng vỡ to ra, Thượng Nghĩ sĩ Chức viết nhiều bài miệt thị Mặt Trận hết sức nặng nề. Giống như Chủ nhiệm Nguyễn Thanh Hoàng, luật sư Chức không còn giận tôi nữa, mà lui tới nhà tôi uống trà và hút thuốc lá rất thường xuyên. Ông biết ông hớ vì cả tin.

Một hôm tôi hỏi luật sư Chức: “Anh có biết tại sao Nguyễn Xuân Nghĩa là “Mastermind” trong Mặt Trận, cha đẻ ra Việt Tân mà lại giao cho Nguyễn Kim Huờn làm Chủ tịch, rồi bỏ Việt Tân để nhảy sang lãnh vực truyền thông?” Ông Chức đáp bằng tiếng Pháp: “Sa mission est accomplie” (Sứ mạng của anh ta hoàn tất). Câu trả lời của luật sư Chức khiến tôi nghĩ ngợi nhiều lắm.

Tốt nghiệp ở Pháp về, anh làm việc với Phó Thủ tướng Nguyễn văn Hảo đặc trách kinh tế. Khi Miền Nam rơi vào tay cộng sản, ông Hảo chẳng những không tìm cách ra nước ngoài, nhất định ở lại và cố giữ cho bằng được 16 tấn vàng để tâng công với cộng sản. Có phải anh Nghĩa được người phía bên kia móc nối để dụ Nguyễn văn Hảo ở lại? Sở dĩ tôi hỏi anh câu này là vì hai anh em ông Trung tướng Lâm văn Phát, Trung tá Lâm văn Phiếu ở lại vì có bà chị làm lớn ở phía bên kia dụ ở lại, sẽ được đảng trọng dụng trong chế độ mới. Rất nhiều trường hợp tương tự với hai ông Phát, Phiếu được móc nối lắm. Hai anh em ông Phát, ông Phiếu vẫn bị đi tù vì tin vào lời dụ dỗ của bà chị.

Có người hỏi anh có phải là Nguyễn Xuân Nghĩa, tác giả bài viết mạt sát chế độ VNCH một cách thậm tệ đăng trên báo cộng sản. Anh đáp: “Ở VN có nhiều người mang tên Nguyễn Xuân Nghĩa, nhưng ông nhà báo Nguyễn Xuân Nghĩa ấy không phải là em”. Tôi thắc mắc tại sao sau khi anh rời khỏi VN thì không thấy ông nhà báo Việt Cộng nào ký tên Nguyễn Xuân Nghĩa nữa. Tôi chỉ biết có ông Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng, nhỏ tuổi hơn anh, đang là nhà đấu tranh dân chủ trong nước.

Là kinh tế gia, có phải anh Nghĩa là “Mastermind” giúp cộng sản Hà Nội mở ra các chiến dịch đánh tư sản mại bản, đổi tiền, tổ chức ra đi bán chính thức để vét tiền của dân Miền Nam? Nhờ đó anh không phải bị đi tù giống như bao quân cán chính trong chế độ VNCH. Anh Nghĩa lên máy bay rời khỏi Việt Nam bằng đường chính thức; chứ không vượt biển, vượt biên gian khổ, hiểm nguy như bao nhiêu người khác, có lẽ anh phải nhận điều kiện gì đó với Việt Cộng? Nếu ra hải ngoại, anh không làm theo yêu cầu của VC, thì VC sẽ tố giác anh là tác giả của những chiến dịch đánh tư sản mại bản, đổi tiền, tổ chức ra đi bán chính thức … chắc chắn anh khó sống với đồng bào nạn nhân của anh.

Ở lại với cộng sản 5 năm, có lẽ anh Nghĩa được cộng sản đào tạo thuần thục về phương thức đấu tranh khuynh đảo, nên tuy nhỏ tuổi mà anh làm cho Mặt Trận trở thành một đảng Lừa Đảo một cách ngon lành, không ai dám đụng đến, kể cả những đoàn thể đấu tranh quang phục quê hương.

Nhà báo A. C. Thompson tiết lộ anh có cuộc họp của Mặt Trận bàn tính thanh toán nhà báo Đỗ Ngọc Yến, chủ nhân báo Người Việt. Anh phủ nhận cái tin đó và mạt sát anh Thompson thậm tệ. Anh Thompson trả lời nhà báo Hà Giang rằng anh có nói. Nếu anh Nghĩa muốn đối chất thì Thompson sẵn có ba nhân chứng. Từ đó đến nay anh không kiện Thompson tội vu khống như anh đã kiện các ông Nguyễn Thanh Hoàng, Cao Thế Dung và Vũ Ngự Chiêu dù có nhiều người viết thúc đẩy anh kiện.

Qua sự kiện này, tôi hiểu bọn trong Mặt Trận hiếu sát, không có mưu lược; còn anh tha mạng Đỗ Ngọc Yến vì anh sẽ dùng Đỗ Ngọc Yến cho ý đồ tương lai. Do đó, tôi hiểu vì sao anh không thèm làm Chủ tịch Đảng Việt Tân, vì nó không quan trọng bằng nắm ngành truyền thông. Anh ngầm cho Đỗ Ngọc Yến biết nhờ sự can thiệp của anh trong Mặt Trận để Đỗ Ngọc Yến phải mang ơn anh, thì anh bảo gì Đỗ Ngọc Yến cũng phải làm để đền ơn anh. Có thể anh dàn xếp cuộc họp kín giữa Đỗ Ngọc Yến và Nguyễn Tấn Dũng mà sau này bại lộ thì Nhật báo Người Việt bị lên án tư thông với Việt Cộng?

Tôi viết bài “JE SUIS CHARLIE” từ đầu năm 2015, yêu cầu anh trả lời câu hỏi của tôi “ai là người giả danh Chủ tịch Hoàng Cơ Minh viết thư từ quốc nội gửi ra thăm đồng bào, khi Hoàng Cơ Minh đã chết từ năm 1987”, anh không thèm trả lời. Nhưng khi nhà báo A. C. Thompson đòi phỏng vấn thì anh sẵn sàng. Anh khen Hoàng Cơ Minh tương kế tựu kế biến việc tìm kiếm binh sĩ Mỹ mất tích thành Kháng Chiến mà không thèm hỏi ý người Mỹ. Trong khi Mỹ đòi phỏng vấn thì anh nhận lời ngay, điều đó chứng tỏ anh trọng Mỹ khinh Việt, càng cho tôi thấy anh mâu thuẫn và không thành thật trong quyết định tham gia Mặt Trận. Anh tự tin anh thừa bản lĩnh để qua mặt nhà báo Mỹ. Không ngờ anh bị lộ chân tướng là người nói dối, vì anh không dám kiện PBS và ký A. C. Thompson.

Thực ra sự dối trá lừa đảo của anh đã xảy ra rõ ràng nhất khi anh giả Chủ tịch Hoàng Cơ Minh đã chết viết thư thăm đồng bào quốc ngoại. Người dân thường lo làm ăn không hay biết đã đành, nhưng giới truyền thông phải biết, vì tấm hình tử thi của HCM đã được báo chí Thái Lan đăng tải từ tháng 11 năm 1987. Có một điều rất lạ là chẳng hiểu sao giới truyền thông VN im lặng và ông Vũ Quang Ninh, một “Guru” truyền thông và những ký giả tên tuổi khác lại rất thân với anh, một người đi lừa. Mà anh đâu chỉ lừa thiên hạ bằng những cao đơn hoàn tán như các anh Sơn Đông mãi võ bán dạo ở đầu đường xó chợ? Anh lừa bằng tin tức láo. Anh làm nhục lá CỜ VÀNG dán trên những chiếc lon xin tiền yểm trợ Kháng Chiến để lây lất nơi chợ búa, nhà hàng ăn. Các nhà truyền thông mù hết hay sao vậy?

Tôi đăng bài “VÀNG RƠI KHÔNG TIẾC” năm 1988, tức là vào thời điểm Hoàng Cơ Minh đã chết, Nguyễn Kim Huờn ra lệnh đàn em đe dọa tính mạng nhân viên tòa soạn Lý Tưởng, mà anh không ngăn, tức là anh chủ trương đàn áp tiếng nói của Quân chủng VNCH. Thế mà những chiến sĩ Không Gian từng chinh Nam phạt Bắc đều im thin thít. Anh Nghĩa lợi hại quá, đi chứ!

Tôi tin anh Nghĩa không phải là cộng sản, vì anh là tay chơi điệu nghệ: rành uống rượu ngon, mặc áo quần đẹp và thích thưởng thức giọng “ténor” từ những tiếng hát “vượt thời gian” réo rắc bên tai mình. Nhưng căn cứ những gì anh đã hành động từ khi anh gia nhập Mặt Trận, anh đẻ ra Việt Tân làm tan biến NIỀM TIN vào chính nghĩa phục quốc như cụ Huỳnh văn Lang lên án thì tôi không biết anh đang ở phía nào. Giống như tôi không thể nói Trí Quang là cộng sản vì tôi không có tài liệu chứng minh, nhưng sau khi lật đổ xong chính quyền Tổng thống Ngô Đình Diệm, Trí Quang tiếp tục gây rối những chính quyền kế tiếp, Trí Quang kêu gọi đồng bào Phật tử mang bàn thờ Phật ra đường để ngăn cuộc hành quân của VNCH truy kích giặc Cộng, tôi hỏi anh Trần Quang Thuận – cánh tay mặt của Trí Quang – rằng Trí Quang thuộc phe quốc gia hay phe cộng sản, thì Trần Quang Thuận nín thinh.

Việt Tân đưa ra luận điệu: “Ai mà chống Việt Tân là làm lợi cho cộng sản” hòng bịt miệng người không đồng ý những hành vi lừa đảo, khủng bố của Việt Tân. Lẽ ra Việt Tân phải giản tán khi thua vụ kiện các ông Nguyễn Thanh Hoàng, Cao Thế Dung, Vũ Ngự Chiêu vì tòa phán quyết các bị can vô tội, nghĩa là sách họ viết ra là đúng sự thật.

Cuốn phim “Terror In Little Saigon” ra đời, Việt Tân phản ứng như đứa con nít bù lu bù loa. Điều đó chứng tỏ trong cái đảng Việt Tân chẳng có ma nào có trí tuệ, có bản lĩnh chính trị. Trình độ ấu trĩ như vậy thì có thể làm tay sai; chứ không thể ngồi đối diện bọn cáo già cộng sản để thương thuyết hay hòa đàm. Sức mạnh của đảng chính trị là dựa vào quần chúng. Nay Việt Tân bị quần chúng khinh dễ thì lấy đâu ra sức mạnh để thương thuyết? Còn những kẻ cầm cờ chạy hiệu bên ngoài ra mặt bênh vực Việt Tan thì càng tệ hơn, bởi những lý lẽ đưa ra để bào chữa đều ngớ ngẩn giống như ông nhà văn mắc bệnh tâm thần Trần Như Huỳnh.

Cuốn phim “Terror In Little Saigon” ra đời là cuộc trắc nghiệm của Mỹ để đánh giá trình độ của một đảng chính trị có đông bạc và đông đoàn viên đã trưởng thành chưa. Đồng thời đánh giá những nhà truyền thông VN “lề phải ở hải ngoại” có làm tròn chức năng “fair, balance, accuracy” như đạo đức nghề nghiệp đề ra không? (truyền thông “lề phải ở hải ngoại” là truyền thông im tiếng trước cái chết của nhà báo Đạm Phong, Lê Triết và bốc ông Nguyễn Xuân Nghĩ lên may xanh đấy!).

Tôi biết anh Nghĩa là người có nhiều thủ đoạn, cao tay ấn, lại được các nhà báo “lề phải ở hải ngoại” bảo kê, mà tôi dám cả gan rà soát hoạt động của anh, thì tôi dễ bị thanh toán bằng cách này hay cách khác. Nhưng thây kệ! Từng xông pha nơi chiến địa như Snoul, Krek, Konpong Thom, Konpong Chàm, Bình Long An Lộc, Bastogne … mà không chết, tức là Trời cho sống để nói lên lời công đạo, dù có chết thì cũng là làm tròn nghĩa vụ Người Lính Việt Nam Cộng Hòa. Còn bị Việt Tân sai bọn đầu đường xó chợ mạ lỵ thì chỉ kiêu hãnh mỉm cười, vì thân còn chẳng tiếc, tiếc chi danh?

Tôi không có “conflict of interest” với Việt Tân, với giới “truyền thông lề phải ở hải ngoại” vì tôi không đảng, không sinh nhai bằng ngòi bút. Trong bài viết “Ba Cuộc Phỏng Vấn Và Hai Năm Phỏng Vấn”, anh Nghĩa dùng câu danh ngôn của nhà văn Louis Scutenaire: “Trong một xứ của người câm thì người mù mắc bệnh điếc” , để khuyên mọi người đừng câm, mù, điếc. Tôi bèn mạo muội làm người “Whisleblower” để độc giả thử xét xem anh Nguyễn Xuân Nghĩa là AI. Anh đứng về phía nào mà biến hải ngoại thành những người mất NIỀM TIN như cụ Huỳnh văn Lang nhận xét.