Dự Báo Kinh Tế Thế Giới Và Việt Nam 2024

Dự Báo Kinh Tế Thế Giới Và Việt Nam 2024

Phát triển bởi Hemera Media

Kinh tế Việt Nam lớn thứ 42 thế giới

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tính theo ngang giá sức mua tương đương 322 tỷ USD, kinh tế Việt Nam đứng thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á, sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Singapore.

Theo bảng xếp hạng được Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố cuối tuần trước, Mỹ vẫn là nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP (tính theo ngang giá sức mua) năm ngoái đạt gần 15.700 tỷ USD. Theo sau là Trung Quốc với khoảng 12.500 tỷ USD, Ấn Độ - 4.800 tỷ USD và Nhật Bản - 4.500 tỷ USD.

Cũng theo báo cáo trên, Nga đã vượt qua Đức để chiếm vị trí nền kinh tế lớn thứ 5 thế giới với 3.400 tỷ USD. Số liệu này của Đức là 3.300 tỷ USD.

Việt Nam đứng thứ 42 trong 177 nền kinh tế được World Bank xếp hạng năm nay. Ảnh: Hoàng Hà

Tại khu vực Đông Nam Á, nước có xếp hạng cao nhất là Indonesia (16) với hơn 1.223 tỷ USD. Theo sau là Thái Lan (21) với hơn 655 tỷ USD, Malaysia (26), Philippines (29) và Singapore (39). Việt Nam xếp ở vị trí 42, ngay sau Singapore trong khu vực, với hơn 322 tỷ USD.

Bảng xếp hạng177 nền kinh tế của World Bank khác với thứ hạng tính theo GDP danh nghĩa của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Theo IMF, dẫn đầu danh sách này vẫn là Mỹ và Trung Quốc với hơn 15.700 và 8.200 tỷ USD. Các thứ hạng sau có sự khác biệt, đứng thứ ba là Nhật Bản, tiếp đó đến Đức, Pháp, Anh, Brazil và Nga. Việt Nam xếp hạng 51 trong danh sách này với GDP danh nghĩa hơn 141 tỷ USD.

World Bank tính toán GDP theo phương pháp ngang giá sức mua. Theo đó, họ coi 1 USD có thể mua được các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, tùy vào từng quốc gia. Ở các nước ít phát triển hơn, 1 USD có thể mua được nhiều hàng hóa hơn. Vì vậy, xếp hạng theo GDP ngang giá sức mua của họ sẽ cao hơn.

Trong báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam công bố ngày 12/7, World Bank đánh giá môi trường kinh tế vĩ mô nhìn chung tương đối ổn định, các cân đối ngoại được cải thiện, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm mạnh nhưng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đánh giá Việt Nam là điạ chỉ đầu tư hấp dẫn trong tương lai ở khu vực ASEAN.

Tuy nhiên thách thức đặt ra khi tăng trưởng chậm kéo dài nhất kể từ khi tiến hành công cuộc cải cách kinh tế cuối những năm 80. Tỷ lệ đầu tư trong GDP giảm, PMI giảm và bán lẻ tăng chậm. Nhập khẩu của khu vực trong nước giảm cho thấy nhu cầu thấp đối với máy móc thiết bị và hàng hóa trung gian, cũng như tiêu dùng cá nhân yếu.  Tình hình tài khóa không mấy thuận lợi, cải cách cơ cấu chậm quá trình mới bắt đầu nhưng chưa được thực hiện quyết liệt.

World Bank dự báo tăng trưởng kinh tế ước tính ở mức 5,3% trong năm nay và khoảng 5,4% vào năm sau. Lạm phát dự kiến ở mức 8.2% vào thời điểm cuối năm 2013.

Theo Thùy Linh vnexpress.net (theo Ria Novosti/WB)

Kinh tế toàn cầu được dự báo giảm trong năm 2022 so với các dự báo đưa ra trước đó. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế nhận định cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn ảnh hưởng đến hàng triệu người và là một cú sốc kinh tế nghiêm trọng làm tăng trưởng toàn cầu có thể giảm hơn 1 điểm phần trăm trong năm 2022, từ mức dự báo 4,5% đưa ra vào tháng 12/2021. Fitch Rating đã điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm dự báo tăng trưởng GDP thế giới năm 2022 xuống còn 3,5%. Ngân hàng Thế giới dự báo mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ đạt 4,1% năm 2022 trong khi con số này của Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 4,4%. Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu ngày 21 tháng 3 năm 2022 của Fitch Ratings dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Hoa Kỳ,  Khu vực đồng Euro và Trung Quốc lần lượt là 3,5%, 3,0%, và 4,8%. Trong khu vực Đông Nam Á, Ngân hàng Phát triển châu Á nhận định tăng trưởng năm 2022 của In-đô-nê-xi-a đạt 5,0%, Phi-li-pin đạt 6%, Thái Lan đạt 4%, Xin-ga-po đạt 4,1%, Ma-lai-xi-a đạt 5,9% và cao nhất là Việt Nam ở mức 6,5%.

I. XU HƯỚNG KINH TẾ VĨ MÔ TOÀN CẦU

1. Tăng trưởng toàn cầu được dự báo giảm trong năm 2022

Theo Báo cáo sơ bộ Triển vọng kinh tế thế giới phát hành vào tháng 3/2022, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) nhận định cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn, ảnh hưởng đến hàng triệu người và là một cú sốc kinh tế nghiêm trọng về thời gian và mức độ bất ổn. Mức độ tác động kinh tế do cuộc xung đột gây ra rất khó định lượng, phụ thuộc một phần vào thời gian xảy ra cuộc chiến và các phản ứng chính sách, nhưng chắc chắn xung đột sẽ tạo ra một lực cản lớn đối với tăng trưởng toàn cầu trong ngắn hạn và tạo áp lực lạm phát mạnh hơn. Theo ước tính của OECD, tăng trưởng toàn cầu năm 2022 có thể giảm hơn 1 điểm phần trăm trong năm 2022 từ mức dự báo 4,5% đưa ra vào tháng 12/2021.

Báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu ngày 21 tháng 3 năm 2022 của Fitch Ratings nhận định triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã xấu đi đáng kể khi các thách thức lạm phát gia tăng và xung đột giữa Nga và U-crai-na đe dọa nguồn cung năng lượng toàn cầu. Theo đó, tăng trưởng GDP thế giới năm 2022 điều chỉnh giảm 0,7 điểm phần trăm so với mức dự báo hồi tháng 12/2021, chỉ đạt 3,5%.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu tháng 01/2022, Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 sẽ giảm xuống còn 4,1%, thấp hơn so với mức 5,5% của năm 2021, do chính phủ các nước thu hẹp chương trình hỗ trợ tài chính và tiền tệ được thực hiện trong thời gian đại dịch. WB dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển sẽ giảm xuống còn 3,8% trong năm 2022, thấp hơn so với mức 5% của năm 2021. Đối với các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi, WB dự báo tốc độ tăng trưởng năm 2022 sẽ ở mức 4,6%, thấp hơn so với mức 6,3% của năm 2021.

Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới tháng 01/2022 của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) nhận định biến thể Omicron đang là một trở ngại đối với nền kinh tế toàn cầu trong năm 2022, khiến tốc độ tăng trưởng chậm lại, đặc biệt ở hai nền kinh tế lớn nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc. IMF đánh giá kinh tế toàn cầu bước vào năm 2022 với vị thế yếu hơn dự kiến trước đó, khi sự xuất hiện của biến thể Omicron vào cuối tháng 11/2021 đe dọa làm thụt lùi quá trình phục hồi kinh tế. Trong khi đó, giá năng lượng tăng cùng với gián đoạn nguồn cung đã khiến lạm phát ở nhiều nước tăng mạnh hơn so với dự báo. Tổ chức này đã hạ dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 xuống 4,4%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10/2021. Đối với các nền kinh tế phát triển, IMF dự báo kinh tế Hoa Kỳ giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo trước đây và đạt mức 4% trong năm 2022. Tại khu vực đồng Euro, hạn chế nguồn cung kéo dài và gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh do đại dịch Covid-19 đã làm giảm dự báo tăng trưởng của khu vực này 0,4 điểm phần trăm xuống mức 3,9% trong năm 2022. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2022 bị điều chỉnh giảm từ mức 0,8 điểm phần trăm so với mức dự báo hồi tháng 10/2021, từ mức 5,6% xuống còn 4,8% do gián đoạn trong lĩnh vực nhà ở, thực hiện nghiêm ngặt chiến lược “không Covid” và đầu tư vào bất động sản giảm.

Hình 1. Dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2021 và 2022 của các tổ chức quốc tế

2. Tổng quan biến động thị trường thế giới

Thương mại toàn cầu có xu hướng tăng sau khi đã chạm đáy

Thước đo thương mại hàng hóa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO)[1]  trong tháng 02/2022 cho thấy sự gián đoạn nguồn cung đã làm giảm sức mạnh của phục hồi thương mại hàng hóa toàn cầu, nhưng điều này có thể sẽ thay đổi khi áp lực chuỗi cung ứng có dấu hiệu giảm bớt. Chỉ số tổng hợp là 98,7, giảm nhẹ so với giá trị 99,5 trong tháng 11/2021 cho thấy sự mất đà trong giao dịch thương mại vào đầu năm 2022. Tuy nhiên, dấu hiệu chạm đáy của chỉ số tổng hợp cho thấy giao dịch hàng hóa có thể sớm tăng lên quanh mức cơ sở (100) trong ngắn hạn.

Hầu hết các chỉ số thành phần của thước đo đều gần với giá trị cơ sở cho thấy xu hướng tăng trưởng, ngoại trừ chỉ số các sản phẩm ô tô (92,0) và vận chuyển công-ten-nơ (97,2). Chỉ số vận chuyển công-ten-nơ tiếp tục giảm xuống dưới xu hướng do tắc nghẽn tại các cảng, nhưng tốc độ giảm chậm lại có thể cho thấy dấu hiệu của sự thay đổi trong tương lai gần.

Ngoài sự gián đoạn chuỗi cung ứng đang diễn ra, thước đo thương mại giảm một phần là do việc áp dụng các biện pháp hạn chế về sức khỏe để ứng phó với làn sóng Covid-19 do biến thể Omicron. Việc nới lỏng các biện pháp này có thể thúc đẩy thương mại trong những tháng tới, mặc dù các biến thể trong tương lai của đại dịch Covid-19 tiếp tục tiềm ẩn những rủi ro đối với hoạt động kinh tế và thương mại.

Theo Bộ phận dự báo của tổ chức The economist (EIU)[2], giá các mặt hàng năng lượng tiếp tục tăng trong năm 2022. Xung đột giữa Nga và U-crai-na đã khiến giá dầu thô, khí đốt tự nhiên và khí tự nhiên hóa lỏng tăng vọt. Cuộc chiến ở U-crai-na và mối bất hòa giữa Nga và phương Tây có thể kéo dài trong vài tháng tới, điều này sẽ khiến giá năng lượng duy trì ở mức cao như hiện tại trong phần lớn thời gian của năm.

Dầu thô hỗn hợp Brent hiện đang giao dịch trên 100 USD/thùng và giá sẽ còn tăng nếu xung đột tiếp tục diễn ra giữa Nga và U-crai-na. Mối đe dọa áp đặt các lệnh trừng phạt đối với xuất khẩu hydro-cacbon của Nga và sự không chắc chắn về mức độ leo thang xung đột đã hạn chế nguồn cung. OPEC + và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tăng sản lượng dầu thô, nhưng điều này sẽ không đủ để làm dịu đà tăng của giá dầu trong ngắn hạn.

Chỉ số giá lương thực, thực phẩm FAO[3] (FFPI) đạt trung bình 140,7 điểm vào tháng 2 năm 2022, tăng 5,3 điểm (3,9 phần trăm) so với tháng 1 và cao hơn 24,1 điểm (20,7 phần trăm) so cùng kỳ năm trước. Đây là mức cao kỷ lục, vượt mức cao nhất trước đó trong tháng 2/2011 (3,1 điểm). Sự gia tăng chỉ số lương thực, thực phẩm được dẫn dắt bởi sự gia tăng mạnh của các chỉ số phụ về giá dầu thực vật và giá sữa. Giá ngũ cốc và thịt cũng tăng.

U-crai-na và Nga là những nhà xuất khẩu ngũ cốc lớn trên thế giới, tổng nguồn cung của 2 quốc gia này chiếm 30% thương mại toàn cầu về lúa mì, 17% ngô và hơn 50% dầu hạt hướng dương. U-crai-na cung cấp khoảng 1/4 lượng ngũ cốc và dầu thực vật nhập khẩu của EU và khoảng một nửa lượng ngô nhập khẩu của EU. Khoảng 2/3 lượng ngũ cốc xuất khẩu của U-crai-na và 3/4 lượng dầu hạt hướng dương xuất khẩu qua các cảng Biển Đen của nước này, nhiều cảng hiện đã bị đóng cửa. Hơn nữa, vào ngày 01/3/2022, ba hãng vận tải công-ten-nơ lớn nhất thế giới, gồm Công ty Vận tải biển Địa Trung Hải (MSC) của Thụy Sĩ, Maersk của Đan Mạch và CMA CGM của Pháp đã tạm ngừng vận chuyển hàng hóa đến và đi từ Nga để đáp trả các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ và EU đối với nước này.

Do đó, giá toàn cầu đối với các mặt hàng nông sản đã tăng vọt và sẽ tiếp tục tăng lên chừng nào xung đột vẫn diễn ra ở U-crai-na. Giá lúa mì kỳ hạn đạt mức cao nhất trong 14  năm vào ngày 01/3/2022 do lo ngại về một cuộc chiến kéo dài giữa Nga và U-crai-na đã gây ra tình trạng mua vào hoảng loạn. Giá ngô kỳ hạn cũng cao hơn, giá đậu nành và dầu thực vật cũng bị ảnh hưởng tương tự. Giá dầu cọ đã đạt mức cao kỷ lục khi các thương nhân vội vàng tìm kiếm nguồn cung thay thế trong bối cảnh không có các lô hàng dầu hạt hướng dương.

Theo IMF, năm 2022, lạm phát dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, trung bình 3,9% ở các nền kinh tế phát triển và 5,9% ở thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Giả sử kỳ vọng lạm phát trung hạn vẫn được duy trì tốt và đại dịch dần suy giảm, lạm phát sẽ giảm dần khi gián đoạn chuỗi cung ứng giảm bớt, chính sách tiền tệ thắt chặt và tái cân bằng nhu cầu từ tiêu dùng hàng hóa sang dịch vụ.

UNDESA cũng đồng quan điểm khi cho rằng áp lực lạm phát gia tăng trên toàn cầu. Lạm phát toàn cầu ước tính đã tăng lên 5,2% năm 2021, cao hơn 2 điểm phần trăm so với tỷ lệ xu hướng của nó trong 10 năm qua. Áp lực lạm phát đặc biệt rõ rệt ở Hoa Kỳ, khu vực đồng Euro, Mỹ Latinh và Caribe. Việc thắt chặt các điều kiện tiền tệ toàn cầu nhanh hơn dự kiến là một thách thức lớn khác. Bất kỳ sự thay đổi bất ngờ nào trong quan điểm chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) có thể đột ngột thay đổi kỳ vọng của nhà đầu tư và gây ra những điều chỉnh lớn trong phân bổ danh mục đầu tư, đồng thời làm thay đổi đáng kể dòng vốn sang các nước đang phát triển.

Điều kiện tài chính có xu hướng thắt chặt trên toàn cầu

Điều kiện tài chính tiếp tục thắt chặt trong tháng 01/2022. Ngày 16/3/2021, Fed đã tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản (0,25%) và đạt mức 0,5% nhằm làm giảm đà gia tăng của chỉ số giá tiêu dùng[4]. Fed cũng cho biết đã lên kế hoạch tăng thêm sáu lần nữa trong năm 2022 với lãi suất dự kiến đạt 1,9% vào cuối năm 2022.

Theo IMF, việc tiết giảm chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ sẽ khiến các điều kiện tài chính toàn cầu thắt chặt hơn, gây áp lực lên các đồng tiền của thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Lãi suất cao hơn cũng sẽ làm cho việc đi vay trên toàn thế giới trở nên đắt đỏ hơn, gây căng thẳng tài chính công đối với các quốc gia này. Đối với các quốc gia có nợ ngoại tệ cao, sự kết hợp của các điều kiện tài chính thắt chặt hơn, tỷ giá hối đoái giảm và lạm phát nhập khẩu cao hơn sẽ dẫn đến những thách thức trong đánh đổi chính sách tài khóa và tiền tệ. Mặc dù việc củng cố tài khóa được thực hiện ở nhiều thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển vào năm 2022, gánh nặng nợ cao sau đại dịch sẽ là một thách thức trong những năm tiếp theo.

Thị trường lao động phục hồi chậm và không chắc chắn

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)[5] cho rằng khả năng phục hồi của thị trường lao động năm 2022 chậm và không chắc chắn do đại dịch sẽ tiếp tục tác động đáng kể đến thị trường lao động toàn cầu. ILO đã hạ mức dự báo về khả năng phục hồi của thị trường lao động năm 2022, dự kiến mức thâm hụt thời gian làm việc toàn cầu trong năm 2022 so với Quý IV/2019 sẽ tương đương với 52 triệu việc làm toàn thời gian.

Tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu dự kiến sẽ duy trì ở mức cao hơn trước đại dịch Covid-19 ít nhất cho đến năm 2023. Ước tính thất nghiệp toàn cầu năm 2022 là 207 triệu người, so với 186 triệu năm 2019. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động toàn cầu năm 2022 dự kiến sẽ vẫn thấp hơn 1,2 điểm phần trăm so với năm 2019.

Đầu tư quốc tế dự kiến tăng trong thời gian tới

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD[6] nhận định nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu tăng trở lại mạnh mẽ vào năm 2021, nhưng không đồng đều. Dòng vốn FDI toàn cầu tăng 77% từ mức 929 tỷ USD vào năm 2020 lên mức 1,65 nghìn tỷ USD vào năm 2021. Các nền kinh tế phát triển có mức tăng mạnh nhất cho đến nay, với vốn FDI ước tính đạt 777 tỷ USD vào năm 2021, gấp ba lần mức đặc biệt thấp vào năm 2020. Ở châu Âu, hơn 80% sự gia tăng dòng vốn là do sự thay đổi lớn ở các quốc gia trung gian tài chính. Dòng tiền vào Hoa Kỳ tăng hơn gấp đôi, với sự gia tăng hoàn toàn do sự gia tăng các hoạt động mua bán và sáp nhập xuyên biên giới (M&A).

Trong tổng mức tăng của dòng vốn FDI toàn cầu vào năm 2021 (718 tỷ USD), hơn 500 tỷ USD, tức gần ba phần tư, được ghi nhận ở các nền kinh tế phát triển. Các nền kinh tế đang phát triển có mức tăng trưởng phục hồi khiêm tốn hơn. Dòng vốn FDI đổ vào các nền kinh tế đang phát triển tăng 30% lên gần 870 tỷ USD, trong đó Đông và Đông Nam Á tăng 20%, khu vực Mỹ Latinh và Caribe ghi nhận sự phục hồi gần mức trước đại dịch.

Theo báo cáo, FDI toàn cầu có thể tăng trưởng trong năm 2022, song khó có thể lặp lại tốc độ tăng trưởng phục hồi như của năm 2021. Nguồn vốn dự án quốc tế trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng của FDI. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 vẫn có thể là nguy cơ làm giảm sút mạnh dòng tiền đầu tư. Ngoài ra, có thể có các rủi ro lớn khác ảnh hưởng đến dòng vốn FDI năm 2022, bao gồm tắc nghẽn về lao động và chuỗi cung ứng, giá năng lượng và áp lực lạm phát tăng.

Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới

Theo WB, sau khi tăng trưởng phục hồi đáng kể vào năm 2021, triển vọng toàn cầu tiếp tục có nhiều bất ổn và tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm. Tái bùng phát đại dịch do biến thể Omicron có thể áp đảo các hệ thống y tế và dẫn tới các biện pháp kiểm soát đại dịch bổ sung trên toàn cầu. Đại dịch có thể tiếp tục làm trầm trọng thêm tình trạng tắc nghẽn nguồn cung, làm tăng lạm phát, gia tăng áp lực thắt chặt hơn của chính sách tiền tệ ở nhiều nền kinh tế. Sự phục hồi các nền kinh tế đang phát triển và thị trường mới nổi cũng có thể bị ảnh hưởng do thiên tai và các sự kiện liên quan đến biến đổi khí hậu.

Tác động kinh tế toàn cầu của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na

Theo IMF, ngoài những đau khổ và khủng hoảng nhân đạo, xung đột giữa Nga và U-crai-na là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế toàn cầu, sẽ ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng và làm tăng giá. Các tác động sẽ phản ánh qua ba kênh chính. Thứ nhất, giá các mặt hàng như thực phẩm và năng lượng cao hơn sẽ đẩy lạm phát lên cao hơn nữa, từ đó làm giảm giá trị thu nhập và tác động đến nhu cầu. Thứ hai, các nền kinh tế, đặc biệt là các quốc gia láng giềng, sẽ phải vật lộn với thương mại, chuỗi cung ứng và kiều hối bị gián đoạn cũng như sự gia tăng dòng người tị nạn. Thứ ba, niềm tin kinh doanh giảm và sự không chắc chắn của nhà đầu tư cao hơn sẽ tác động lớn đến giá tài sản, thắt chặt các điều kiện tài chính và có khả năng thúc đẩy dòng vốn chảy ra từ các thị trường mới nổi.

Nga và U-crai-na là những nhà sản xuất hàng hóa lớn, sự gián đoạn đã khiến giá toàn cầu tăng cao, đặc biệt là đối với dầu và khí đốt tự nhiên. Chi phí lương thực đã tăng vọt. Về lâu dài, xung đột có thể làm thay đổi cơ bản trật tự kinh tế và địa chính trị toàn cầu nếu thương mại năng lượng thay đổi, chuỗi cung ứng được cấu hình lại, mạng lưới thanh toán bị phân mảnh và các quốc gia phải xem xét lại việc nắm giữ tiền tệ dự trữ. Căng thẳng địa chính trị gia tăng càng làm tăng thêm rủi ro phân tán kinh tế, đặc biệt là đối với thương mại và công nghệ.

Theo EIU[7], xung đột giữa Nga và U-crai-na sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu thông qua ba kênh chính: trừng phạt tài chính, giá hàng hóa và gián đoạn chuỗi cung ứng.

Ngày 28/02/2022, Hoa Kỳ và tiếp theo là EU đã công bố một gói trừng phạt nhắm vào Ngân hàng Trung ương Nga (CBR). Các biện pháp trừng phạt này sẽ ngăn CBR tiếp cận một nửa trong số 643 tỷ đô la Mỹ dự trữ ngoại hối bằng cách chặn khả năng chuyển đổi tài sản nắm giữ bằng đô la Mỹ và euro thành đồng Rúp. Ngoài ra, Mỹ và EU đã thông báo một số ngân hàng Nga sẽ bị loại khỏi hệ thống thanh toán toàn cầu SWIFT.

Ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của xung đột giữa Nga và U-crai-na đối với nền kinh tế thế giới là làm giá hàng hóa cao hơn. Giá hàng hóa có thể tăng do ba yếu tố: lo ngại về nguồn cung, sự phá hủy cơ sở hạ tầng vật chất và các biện pháp trừng phạt. Dự kiến giá dầu sẽ duy trì trên 100 USD/thùng. Giá xăng sẽ tăng ít nhất 50% trong năm nay. Nga cũng là nhà sản xuất chính của một số kim loại cơ bản (nhôm, titan, palađi và niken), do đó tất cả đều sẽ tăng giá. Điều này sẽ có tác động đáng kể đến các lĩnh vực công nghiệp (chẳng hạn như công nghiệp ô tô) trên toàn cầu. Giá các mặt hàng nông nghiệp (lúa mì, ngô, lúa mạch và hạt cải dầu) sẽ tăng cao.

Các biện pháp trừng phạt tài chính sẽ có tác động đến chuỗi cung ứng và thương mại, vì các công ty sẽ phải vật lộn để tìm kiếm các kênh tài chính để thực hiện giao dịch thương mại với Nga. Ngoài ra, khả năng phá hủy một số cơ sở hạ tầng giao thông (đặc biệt là các cảng ở U-crai-na) sẽ làm phức tạp thêm các vấn đề chuỗi cung ứng hiện có. Sự gián đoạn đối với chuỗi cung ứng sẽ đến từ ba nguyên nhân: khó khăn ảnh hưởng đến các tuyến đường bộ; hạn chế về liên kết hàng không; và việc hủy bỏ các tuyến đường biển từ U-crai-na.

Giá hàng hóa cao hơn sẽ làm tăng lạm phát toàn cầu trong năm nay và có thể kéo dài sang năm 2023. Trước đây EIU dự báo lạm phát toàn cầu lên mức gần 6% trong năm 2022, nhưng giờ đây, mốc đó dự kiến sẽ bị vượt qua do giá hàng hóa tăng đột biến. Giá cao hơn cũng sẽ khiến các ngân hàng trung ương thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát.

Xung đột giữa Nga và U-crai-na đánh dấu một thời điểm quan trọng trong việc định hình lại trật tự địa chính trị, nó không chỉ đơn thuần là một xung đột khu vực mà còn thể hiện sự rạn nứt trong quan hệ giữa Nga và phương Tây, có ảnh hưởng sâu sắc đến châu Âu và thế giới. Theo EIU, xung đột  giữa Nga và U-crai-na sẽ ảnh hưởng đến cán cân quyền lực toàn cầu theo 10 cách thức, gồm (1) Cuộc chiến của Nga ở U-crai-na sẽ dẫn đến sự phân chia mới ở châu Âu; (2) Việc Nga vi phạm chủ quyền của U-crai-na cho thấy sự kết thúc của thời kỳ hậu chiến tranh lạnh; (3) Cuộc chiến ở U-crai-na sẽ làm sâu sắc thêm quan hệ đồng minh chiến lược giữa Nga và Trung Quốc; (4) Những hành động của Nga đẩy nhanh sự phân chia thế giới thành hai chiến tuyến đối đầu và thù địch; (5) Tập trung vào an ninh châu Âu sẽ hạn chế Mỹ nghiêng về châu Á; (6) Cuộc chiến ở U-crai-na sẽ đẩy nhanh chạy đua vũ trang toàn cầu; (7) Đức có thể bắt đầu vai trò quyết đoán hơn trong chính sách an ninh của châu Âu; (8) Châu Âu sẽ buộc phải quyết định xem mình đứng ở đâu trong trật tự thế giới mới; (9) Thách thức đối với nền dân chủ toàn cầu sẽ trở nên rõ rệt hơn; (10) Cuộc chiến ở U-crai-na sẽ làm cho các nước khác táo bạo hơn và thổi bùng lên các cuộc xung đột hiện có.

II. TĂNG TRƯỞNG CỦA MỘT SỐ NỀN KINH TẾ

Theo báo cáo Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới của UNDESA, nền kinh tế Hoa Kỳ được dự báo sẽ tăng trưởng 3,5% trong năm 2022 trong bối cảnh tái cân bằng nhu cầu. Tăng trưởng tiêu dùng dự kiến ​​sẽ chậm lại, xuất khẩu được dự báo sẽ phục hồi. Những rủi ro chủ yếu bắt nguồn từ những bất ổn liên quan đến đại dịch, triển vọng lạm phát và các quyết định chính sách tiền tệ liên quan. Ngày 16/3, Fed đã quyết định tăng lãi suất liên bang lần đầu tiên trong năm 2022 thêm 0,25 điểm phần trăm, lên phạm vi 0,25 – 0,5% và dự báo sẽ có nhiều đợt tăng lãi suất nữa nhằm ứng phó với lạm phát.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu của WB, tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ dự báo đạt 3,7% trong năm 2022, điều chỉnh giảm 0,5 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 6/2021, một phần phản ánh tái bùng phát đại dịch Covid-19 do biến thể Omicron, tắc nghẽn nguồn cung, lạm phát cao và việc rút hỗ trợ chính sách tiền tệ nhanh hơn so với dự kiến. Tuy nhiên, giá trị sản xuất được dự báo sẽ lấy lại xu hướng trước đại dịch vào cuối năm 2022.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng tổng hợp (PMI) của Hoa Kỳ trong tháng 2/2022 điều chỉnh giảm nhẹ so với ước tính sơ bộ, ở mức 55,9 điểm, nhưng vẫn cao hơn mức 51,1 điểm trong tháng 1/2022 do ảnh hưởng của biến thể Omicron. Động lực tăng trưởng đã phục hồi trở lại ở các nhà sản xuất (57,3 điểm) và các nhà cung cấp dịch vụ (56,5 điểm). Các điều kiện nhu cầu mạnh hơn đến từ phía các công ty tư nhân là động lực thúc đẩy chỉ số đạt mức tăng nhanh nhất trong lĩnh vực kinh doanh kể từ tháng 7/2021. Nhu cầu khách hàng nước ngoài tăng đã giúp cho doanh số bán hàng mới tăng nhanh khi các đơn hàng xuất khẩu mới tăng mạnh. Áp lực lạm phát vẫn ở mức cao mặc dù chi phí nguồn cung đã giảm nhẹ. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh ở mức cao trong bốn tháng liên tiếp trong bối cảnh giá sản phẩm dịch vụ tăng cao kỷ lục. Tồn đọng việc làm ở các công ty khu vực tư nhân dẫn tới áp lực thuê thêm nhân công mới ngày càng tăng. Mặc dù vẫn diễn ra tình trạng thiếu lao động nhưng các công ty này đã tăng số lao động với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 5/2021.

IMF điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ năm 2022 giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10/2021, đạt mức 4,0%. Dự báo tăng trưởng kinh tế Hoa Kỳ của một số tổ chức quốc tế được trình bày ở Hình 2.

Hình 2. Dự báo tăng trưởng của Hoa Kỳ năm 2021 và 2022

Đối với tăng trưởng GDP Quý I/2022, Trading Economics[8] dự báo tăng trưởng GDP của Hoa Kỳ Quý I/2022 tăng 3,1% so với Quý IV/2021 và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước.

Theo báo cáo Triển vọng kinh tế toàn cầu năm 2022 của WB, tăng trưởng kinh tế khu vực đồng Euro có thể vẫn vững chắc trong những tháng đầu năm 2022. Sau khi đạt 5,2% năm 2021, tăng trưởng khu vực đồng Euro dự kiến sẽ chậm lại, xuống còn 4,2% năm 2022, thấp hơn 0,2 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 6/2021, phản ánh tiêu dùng dịch vụ phục hồi chậm hơn so với dự kiến do sự xuất hiện của biến thể Omicron.

UNDESA nhận định tăng trưởng kinh tế châu Âu phục hồi trở lại nhưng khủng hoảng vẫn chưa kết thúc. Theo đó, UNDESA dự báo GDP khu vực đồng Euro tăng trưởng ở mức 4,0% năm 2022, sau khi phục hồi ở mức 4,7% năm 2021.

Chỉ số PMI tổng hợp trong tháng 2/2022 của khu vực đồng Euro bị điều chỉnh giảm nhẹ từ 55,8 điểm theo ước tính sơ bộ xuống 55,5 điểm nhưng vẫn cao hơn mức 52,3 điểm trong tháng 1/2022. Tốc độ tăng của chỉ số PMI nhanh hơn mức trung bình theo chuỗi nhưng vẫn yếu hơn so với mức cao đạt được trong những tháng cuối năm 2021 do năng lực kinh doanh bị hạn chế vì thiếu hụt nguồn cung và nhân lực. Chỉ số PMI ngành chế biến chế tạo và ngành dịch vụ trong tháng 2/2022 phục hồi đáng kể hơn so với tháng 1/2022, lần lượt đạt 58,2 và 55,5 điểm, đã góp phần thúc đẩy phục hồi tăng chỉ số PMI tổng hợp.

Theo báo cáo sơ bộ của tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), tác động tiềm ẩn của cuộc xung đột giữa Nga và U-crai-na đã gây ra sự hỗn loạn thị trường trong những tuần đầu tiên diễn ra cuộc chiến, làm gia tăng tác động tiêu cực khi áp đặt các biện pháp trừng phạt hoặc tẩy chay người tiêu dùng và doanh nghiệp, gián đoạn vận chuyển và giao thông hàng không, thiếu các sản phẩm chính từ Nga, các hạn chế thương mại như cấm xuất khẩu hàng thực phẩm, hoặc làm suy giảm niềm tin của người tiêu dùng. Một rủi ro kinh tế tiềm ẩn nữa là xuất khẩu năng lượng từ Nga sang EU có thể ngừng hoàn toàn. Tác động của cú sốc rất khó định lượng và có thể xảy ra đột ngột do khả năng thay thế cho nguồn cung từ thị trường thế giới trong ngắn hạn và mức dự trữ khí đốt thấp. Những áp lực khác có thể xảy ra khi giá khí đốt ở châu Âu tăng đỉnh điểm từ khi xung đột bắt đầu xảy ra. Giá đỉnh điểm cao hơn 170% so với giá tháng 1/2021, gấp đôi quy mô của cú sốc giá xăng được giả định trong mô phỏng trước đó. Nếu giá liên tục ở mức này sẽ làm tăng lạm phát ở châu Âu thêm 1,25 điểm phần trăm (làm lạm phát của khu vực đồng Euro ở mức hơn 3,5 điểm phần trăm) và tiếp tục làm giảm tăng trưởng của châu Âu hơn 0,5 điểm phần trăm. Giảm 20% đầu vào năng lượng nhập khẩu (gồm nhập khẩu trực tiếp và gián tiếp nhiên liệu hóa thạch, sản phẩm nhiên liệu tinh chế, cung cấp điện và khí đốt) sẽ làm giảm tổng sản lượng ở các nền kinh tế châu Âu hơn 1 điểm phần trăm. Các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất gồm sản xuất năng lượng trong nước, vận tải hàng không, sản xuất hóa chất và kim loại. Tuy nhiên, giảm năng lượng nhập khẩu có thể được bù đắp phần nào bằng việc sản xuất trong nước mạnh hơn, nhờ vào dự trữ hoặc cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng.

IMF dự báo tăng trưởng GDP của khu vực đồng Euro năm 2022 đạt 3,9%, điều chỉnh giảm 0,4 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10/2021. Hình 3 dưới đây thể hiện dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro của một số tổ chức quốc tế.

Hình 3. Dự báo tăng trưởng của khu vực đồng Euro năm 2021 và 2022

GDP Quý I/2022 của khu vực đồng Euro theo dự báo của Trading Economics[9] tăng 0,3% so với Quý IV/2021 và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước.

Theo WB, hoạt động kinh tế của Nhật Bản vẫn ảm đạm trong năm 2021 nhưng đã có những dấu hiệu phục hồi vào những tháng cuối năm do đạt được tỷ lệ tiêm chủng cao. Điều này cho phép Nhật Bản nới lỏng các biện pháp kiểm soát đại dịch và mở rộng phát triển kinh tế. Sau khi tăng trưởng kinh tế ước tính đạt 1,7% năm 2021, nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng trưởng ở mức 2,9% năm 2022, cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 6/2021 nhờ việc giải phóng nhu cầu bị dồn nén sau khi tái bùng phát đại dịch năm 2021 và gói kích cầu tài khóa bổ sung được công bố vào tháng 12 năm 2021.

UNDESA nhận định tăng trưởng GDP của Nhật Bản đạt 3,3% trong năm 2022. Nhu cầu trong nước dự kiến ​​sẽ tăng mạnh do tiêu dùng tư nhân tăng. Đầu tư tư nhân cũng được dự báo sẽ phục hồi cùng với sự cải thiện niềm tin. Cả chính sách tiền tệ và tài khóa có thể sẽ vẫn mở rộng để hỗ trợ nhu cầu trong nước phục hồi.

Chỉ số PMI tổng hợp tháng 02/2022 của Nhật Bản được điều chỉnh lên 45,8 điểm, tăng so với ước tính sơ bộ 44,6 điểm nhưng giảm mạnh so với 48,8 điểm của tháng 01/2022. Con số này đánh dấu tháng giảm thứ hai liên tiếp của khu vực tư nhân. Các đơn đặt hàng mới chứng kiến sự sụt giảm do nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất tăng thấp nhất trong năm tháng qua và các công ty trong lĩnh vực dịch vụ báo cáo mức giảm mạnh nhất kể từ tháng 8 năm 2021. Theo xu hướng này, hoạt động kinh doanh chính bị suy yếu với tốc độ nhanh hơn. Việc làm đã tăng liên tục trong 13 tháng qua. Về lạm phát, gánh nặng chi phí tăng mạnh nhất trong hơn 13 năm, trong bối cảnh các báo cáo về tình trạng thiếu nguyên liệu và lo-gis-tíc ngày càng lan rộng, dẫn đầu là khu vực sản xuất.

IMF dự báo tăng trưởng GDP của nền kinh tế Nhật Bản năm 2022 đạt 3,3%, điều chỉnh tăng 0,1 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra hồi tháng 10/2021. Hình 4 dưới đây tổng hợp dự báo của các tổ chức quốc tế về tăng trưởng của Nhật Bản.

Hình 4. Dự báo tăng trưởng của Nhật Bản năm 2021 và 2022

Theo Trading Economics[10], GDP Quý I/2022 của nền kinh tế Nhật Bản dự báo tăng 0,9% so với Quý IV/2021 và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước.

Theo WB, dự báo tăng trưởng GDP của Trung Quốc ​​đạt 5,1% năm 2022 trong bối cảnh ảnh hưởng kéo dài của đại dịch và các quy định chặt chẽ hơn đối với một số lĩnh vực của nền kinh tế. Dự báo tăng trưởng năm 2022 bị điều chỉnh giảm 0,3 điểm phần trăm so với con số dự báo đưa ra trong tháng 6/2021, với hỗ trợ chính sách được cho là chỉ bù đắp được một phần tác động của việc thắt chặt quy định và suy thoái trong lĩnh vực bất động sản, dự kiến ​​sẽ ảnh hưởng nặng hơn đến đầu tư nhà ở. Khả năng suy thoái rõ rệt và kéo dài trong lĩnh vực bất động sản có đòn bẩy tài chính cao cũng như những tác động tiềm tàng của nó đối với giá nhà, chi tiêu dùng và tài chính của chính quyền địa phương là một nguy cơ gây suy giảm đáng kể đối với triển vọng kinh tế.

Tổ chức UNDESA dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 5,2% năm 2022. Giảm mạnh xây dựng mới ở quốc gia này có thể làm giảm nhu cầu về nguyên liệu thô từ phần còn lại của thế giới. Đồng thời, việc kiềm chế thị trường bất động sản có thể dẫn đến tình trạng vỡ nợ của một số nhà phát triển bất động sản tư nhân lớn, gây ra hậu quả không nhỏ đối với các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác cũng như các nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu nước ngoài của các công ty này. Mặc dù Trung Quốc đang quản lý tình hình một cách thận trọng, lo ngại về sự lan tỏa này vẫn đang gia tăng.

IMF dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc đạt 4,8% năm 2022, điều chỉnh giảm 0,8 điểm phần trăm so với dự báo đưa ra trong tháng 10/2021 trong bối cảnh sản xuất bị gián đoạn do áp dụng chính sách “không Covid” và căng thẳng tài chính của các nhà phát triển bất động sản. Fitch Ratings cũng dự báo tăng trưởng Trung Quốc đạt 4,8% trong năm 2022.

Dự báo của WB, IMF và UNDESA về tăng trưởng của Trung Quốc được trình bày ở Hình 5.

Hình 5. Dự báo tăng trưởng của Trung Quốc năm 2021 và 2022

Chỉ số PMI tổng hợp của nền kinh tế Trung Quốc trong tháng 02/2022 đạt 50,1 điểm, bằng với mức điểm của tháng 01/2022. Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ và công nghiệp chế biến chế tạo đều tăng nhẹ trong khi các đơn hàng mới ổn định sau khi giảm nhẹ trong tháng 01/2022 với sự gia tăng khiêm tốn về doanh số bán hàng của các nhà sản xuất bù đắp cho sự sụt giảm của các công ty dịch vụ. Trong khi đó, các đơn hàng xuất khẩu mới lại giảm với tốc độ chậm hơn, do cả hai ngành đều ghi nhận doanh số bán hàng ra nước ngoài thấp hơn. Việc làm giảm nhẹ trong tháng hoạt động thứ hai của năm. Lạm phát chi phí đầu vào chậm lại do chi phí dịch vụ tăng yếu hơn nhưng nhìn chung vẫn ổn định.

Theo Trading Economics[11], GDP Quý I/2022 của nền kinh tế Trung Quốc dự báo tăng 1,5% so với Quý IV/2021 và tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước.

Theo ADB[12], khi biến thể Delta lan rộng khắp khu vực, nhiều hạn chế về di chuyển và các hoạt động kinh tế đã được áp dụng trong Quý II và III/2021. Do đó, triển vọng của khu vực Đông Nam Á vào năm 2021 đã bị hạ từ 4,4% trong dự báo tháng 4/2021 xuống khoảng 3% vào tháng 12/2021. Đối với năm 2022, tăng trưởng kinh tế của khu vực được dự báo ở mức 5,1%.

Sử dụng rộng rãi và nhanh chóng vắc-xin đã giúp hạn chế sự gia tăng các trường hợp mắc mới và tử vong do Covid-19 ở một số quốc gia trong khu vực. Điều này cho phép các chính phủ dần dỡ bỏ phong tỏa, người dân được di chuyển tự do hơn và tiếp tục hoạt động kinh doanh.

Nền kinh tế In-đô-nê-xi-a được dự kiến tăng trưởng khoảng 5% vào năm 2022. Kết quả kinh tế được cải thiện này là do: (i) sự phục hồi dần nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ bị dồn nén khi các hạn chế di chuyển được nới lỏng và tiến hành tiêm chủng, (ii) phản ứng chính sách kinh tế vĩ mô lớn và kịp thời, và (iii) môi trường bên ngoài hỗ trợ.

Tại Ma-lai-xi-a, sự thay đổi giữa việc thắt chặt và nới lỏng các hạn chế do đại dịch Covid-19 đã dẫn đến những biến động rõ rệt trong kết quả GDP năm 2021. Với việc ngày càng có nhiều doanh nghiệp thích nghi với môi trường hoạt động mới và với sự hỗ trợ tiếp tục của chính phủ, ADB dự báo tăng trưởng kinh tế của Ma-lai-xi-a năm 2022 đạt mức 5,9%.

Tại Phi-li-pin, nền kinh tế đã phục hồi vào năm 2021. GDP của quốc gia này dự kiến sẽ tăng 6% trong năm 2022 do nhu cầu trong nước phục hồi và chính sách tài khóa và tiền tệ tiếp tục mang tính hỗ trợ.

Lĩnh vực du lịch là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Thái Lan trong nhiều năm. Tuy nhiên, đại dịch đã làm ngưng trệ hoạt động du lịch quốc tế và khiến các hoạt động kinh tế bị thu hẹp đáng kể. Với chương trình tiêm chủng quốc gia bắt đầu tiến hành vào nửa cuối năm 2021, Thái Lan chuẩn bị mở cửa trở lại Băng-cốc và các thành phố lớn khác vào tháng 10/2021. Tuy nhiên, kế hoạch này đã bị hoãn lại cho đến tháng 11/2021 do tỷ lệ tiêm chủng không đạt mục tiêu. ADB dự báo tăng trưởng của Thái Lan năm 2022 là 4%.

Tăng trưởng GDP năm 2021 và 2022 của một số quốc gia Đông Nam Á được trình bày tại Biểu 1 dưới đây.

Theo ấn phẩm Cập nhật kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 3/2022, số ca mắc Covid-19 mới tăng đột biến, lên đến hơn 100.000 ca mỗi ngày trong nửa cuối tháng 2 sau kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán, khiến các chỉ số di chuyển chính giảm.

Tuy nhiên, dữ liệu hiện có cho thấy các hoạt động kinh tế trong nước tiếp tục phục hồi. Sản xuất công nghiệp tăng 8,5% và tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa chuyển từ thặng dư 1,4 tỷ USD trong tháng 1/2022 sang thâm hụt 2,0 tỷ USD trong tháng 2/2022 do nhập khẩu tăng nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu. So với một năm trước, FDI  đăng ký giảm, trong khi giải ngân vốn FDI tăng tháng thứ 3 liên tiếp.

Mặc dù giá năng lượng tăng nhưng lạm phát tiếp tục được kiềm chế nhờ giá lương thực, thực phẩm tương đối ổn định và nhu cầu trong nước còn yếu. Nhu cầu tín dụng vẫn cao sau Tết Nguyên Đán khiến lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng giữ ở mức 2,56% vào thời điểm cuối tháng 2, so với mức dưới 1% cuối năm 2021. Cân đối ngân sách thặng dư 1,1 tỷ USD trong tháng 2/2022 do kết quả thu ngân sách tốt. Chi ngân sách tăng nhờ cải thiện tiến độ giải ngân đầu tư công.

Mặc dù nền kinh tế tiếp tục cho thấy khả năng chống chịu và đang phục hồi nhưng rủi ro đã tăng cao do các ca nhiễm Omicron đang diễn ra trên cả nước và xung đột giữa Nga và U-crai-na làm gia tăng tính bất định về phục hồi kinh tế toàn cầu, tạo ra những căng thẳng mới đối với chuỗi cung ứng toàn cầu và tăng áp lực lạm phát. Do tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc – những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam – có thể bị ảnh hưởng, doanh nghiệp được khuyến khích tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới và đổi mới sáng tạo sang những sản phẩm mới thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu và các hiệp định thương mại tự do hiện có để tăng cường khả năng chống chịu của xuất khẩu.

Trong Báo cáo điểm lại tháng 01/2022 của WB, GDP của Việt Nam sẽ bật tăng trở lại từ 2,58% năm 2021 lên 5,5% năm 2022, nhưng những rủi ro tiêu cực vẫn ở mức cao. Dự báo trên dựa trên giả định là đại dịch sẽ được kiểm soát cả trong nước và quốc tế. Trong điều kiện như vậy kết hợp với nới lỏng các biện pháp hạn chế đi lại và dịch tễ, khu vực dịch vụ được kỳ vọng sẽ phục hồi phần nào khi nhà đầu tư và người tiêu dùng củng cố niềm tin vào năm 2022. Khách du lịch quốc tế cũng được kỳ vọng sẽ bắt đầu quay trở lại từ giữa năm 2022 trở đi, giúp cho ngành du lịch từng bước phục hồi. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ được hưởng lợi từ nhu cầu ổn định tại các nền kinh tế Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc, do các quốc gia này tiếp tục tăng trưởng mặc dù với tốc độ chậm hơn. Chính sách tài khóa có thể sẽ được nới lỏng hơn, ít nhất trong nửa đầu năm 2022 vì các cấp có thẩm quyền đang cân nhắc ban hành gói hỗ trợ phục hồi kinh tế vào đầu năm. Chính sách tiền tệ sẽ quay lại cách tiếp cận an toàn nhằm cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát, đồng thời cần theo dõi chặt chẽ sức khỏe của khu vực tài chính. Cán cân vãng lai được kỳ vọng sẽ đạt thặng dư ở mức nhỏ trong trung hạn nhờ kết quả xuất khẩu và dòng kiều hối tiếp tục xu hướng tăng trưởng vững chắc. Do xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, nên thặng dư chỉ ở mức khiêm tốn, khoảng 1,5-2% GDP trong trung hạn. Kiều hối dự kiến đóng góp ổn định từ 18 tỷ USD đến 20 tỷ USD cho tài khoản vãng lai trong trung hạn.

Dự báo của Ngân hàng Phát triển châu Á

Năm 2021, do ảnh hưởng nặng nề của đợt thứ 4 nhiễm Covid-19, GDP của Việt Nam tăng 2,6% vào năm 2021. Nền kinh tế dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng trước đại dịch là 6,5% trong năm 2022, nhờ tiến độ tiêm chủng nhanh chóng, sự phục hồi kinh tế toàn cầu và một số động lực chính của tăng trưởng kinh tế, bao gồm cả quá trình chuyển đổi kỹ thuật số tại Việt Nam.

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, bao gồm (i) đại dịch vẫn diễn biến phức tạp trên toàn thế giới và trên phạm vi toàn quốc; (ii) doanh thu bán lẻ tiếp tục giảm cho thấy sức cầu yếu và phục hồi chậm; (iii) nguồn thu ngân sách nhà nước không bền vững trong bối cảnh chi tiêu tăng lên, dẫn đến thâm hụt tài khóa cao hơn; (iv) giải ngân vốn đầu tư công chậm; (v) một số trở ngại đối với doanh nghiệp; và (vi) tái cơ cấu nền kinh tế bị trì hoãn và sự gia tăng các khoản cho vay kém hiệu quả.

Trading Economic dự báo tăng trưởng GDP Quý I/2022 của Việt Nam tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước.

[1] Thước đo thương mại hàng hóa, ngày 21/02/2022

[2] https://www.eiu.com/n/content/the-eiu-update/

[3] http://www.fao.org/worldfoodsituation/foodpricesindex/en/

[4] https://www.usnews.com/news/economy/articles/2022-03-16/fed-raises-interest-rates-for-the-first-time-since-2018-in-bid-to-curb-inflation-sees-six-more-hikes-in-2022

[5] Báo cáo Xu hướng triển vọng việc làm và xã hội thế giới năm 2022

[6] Báo cáo đầu tư thế giới 2021, tháng 6/2021

[7] https://www.eiu.com/n/global-economic-implications-of-the-russia-ukraine-war/

[8] Forecast Gdp Growth Rate (tradingeconomics.com)

[9] Forecast Gdp Growth Rate (tradingeconomics.com)

[10] Forecast Gdp Growth Rate (tradingeconomics.com)

[11] Forecast Gdp Growth Rate (tradingeconomics.com)

[12] Ấn phẩm Đông Nam Á, tăng trưởng từ đại dịch, tháng 3/2022